Sản xuất nông nghiệp Việt Nam - 5 năm nhìn lại (2016-2020)

|

Sản xuất nông nghiệp Việt Nam - 5 năm nhìn lại (2016-2020)

Giai đoạn 2016-2020, lĩnh vực nông, lâ;m nghiệp và thủy sản Việt Nam tiếp tục thể hiện vai trò là bệ đỡ của nền kinh tế, là nền tảng cho ổn định đời sống xã hội. Một số chỉ tiêu chủ yếu của ngành nông, lâ;m nghiệp và thủy sản giai đoạn 2016-2020 đạt và vượt mục tiêu đề ra, nổi bật là: Tốc độ tăng trưởng GDP toàn ngành bình quâ;n đạt 2,54%/năm; tổng kim ngạch xuất khẩu nông, lâ;m, thủy sản đạt 138,7 tỷ USD, riêng năm 2020 đạt 28,7 tỷ USD; tỷ lệ che phủ rừng năm 2020 đạt 42%; hết năm 2020 có 62% xã đạt chuẩn nông thôn mới; thu nhập của cư dâ;n nông thôn năm 2020 bình quâ;n đạt 41,8 triệu đồng/người… Trong đó, sản xuất nông nghiệp với nhiều chuy???n biến tích cực đã góp phâ;̀n không nhỏ trong sự phát triển chung của toàn ngành nông, lâ;m nghiệp và thủy sản.

Chuyển dịch cơ cấu theo hướng giảm dâ;̀n tỷ trọng nông nghiệp, tăng dâ;̀n tỷ trọng lâ;m nghiệp và thủy sản.
 
Số liệu của Tổng cục Thống kê cho thâ;́y, tăng trưởng của khu vực nông, lâ;m nghiệp và thủy sản năm 2020 so với năm 2015 đạt 13,4%, trong đó ngành nông nghiệp tuy đạt mức tăng 9,1% nhưng đóng góp cao nhâ;́t tới 7 điểm phần trăm vào mức tăng tổng giá trị tăng thêm của khu vực I; ngành lâ;m nghiệp tăng cao nhâ;́t với 27,7% nhưng chiếm tỷ trọng thâ;́p nên chỉ đóng góp 1,2 điểm phần trăm; ngành thủy sản tăng trưởng khá ở mức 26,6%, đóng góp 5,2 điểm phần trăm.

Giai đoạn 2016-2020, giá trị tăng thêm của ngành nông, lâ;m nghiệp và thủy sản chiếm từ 14-16% trong GDP, bình quâ;n tăng 2,54%/năm, trong đó nông nghiệp tăng 1,8%/năm, đóng góp 1,32 điểm phần trăm vào mức tăng chung cả khu vực; lâ;m nghiệp tăng 5%/năm, đóng góp 0,22 điểm phần trăm và thủy sản tăng 4,8%/năm, đóng góp 1 điểm phần trăm.
Nhìn chung, trong nội bộ ngành nông, lâ;m nghiệp và thủy sản có sự chuy???n dịch cơ câ;́u từ nông nghiệp sang lâ;m nghiệp và thủy sản theo hướng giảm dần tỷ trọng nông nghiệp, tăng dần tỷ trọng lâ;m nghiệpvà thủy sản. Cơ câ;́u giá trị tăng thêm ngành nông nghiệp cả nước trong giá trị tăng thêm nông, lâ;m nghiệp và thủy sản giảm 2,1 điểm phần trăm từ 74,9% năm 2015 xuống 72,8% năm 2020, đồng thời lâ;m nghiệp tăng 0,5 điểm phần trăm, từ 4,3% năm 2015 lên 4,8% năm 2020 và thủy sản tăng 1,6 điểm phần trăm từ 20,8% năm
2015 lên 22,4% năm 2020.

Sản xuất nông nghiệp có nhiều chuy???n biến rõ nét, hướng đến nâ;ng cao chất lượng và hiệu quả sản phẩm
 
Năm 2018, diện tích đâ;́t sản xuâ;́t nông nghiệp là 11.498,5 nghìn ha, giảm 31,7 nghìn ha so với năm 2015. Trong đó, đâ;́t trồng câ;y hàng năm đạt 6.952.1 nghìn ha, giảm 45,9 nghìn ha (đâ;́t trồng lúa giảm 22,6 nghìn ha và đâ;́t trồng câ;y hàng năm khác giảm 23,3 nghìn ha). Đâ;́t trồng câ;y lâ;u năm là 4.546,4 nghìn ha, tăng 14,2 nghìn ha. Ước tính năm 2020, diện tích trồng câ;y hàng năm đạt 10.873,1 nghìn ha, giảm 7,2% so với năm 2015, diện tích trồng câ;y lâ;u năm đạt 3.607,8 nghìn ha, tăng 11,2%.

Diện tích gieo trồng câ;y lương thực có hạt có xu hướng giảm dần qua các năm, ước tính năm 2020 đạt 8.222 nghìn ha, giảm 8,7% so với năm 2015 do chuy???n đổi mục đích sử dụng đâ;́t, chuy???n đổi cơ câ;́u sản xuâ;́t, thiếu lao động nông nghiệp. Trong đó, diện tích đâ;́t lúa tiếp tục giảm do yêu cầu của công nghiệp hóa, đô thị hóa, phát triển cơ sở hạ tầng. Năm 2020, diện tích trồng lúa ước tính đạt 7.277,8 nghìn ha (chiếm 88,5% tổng diện tích gieo trồng câ;y lương thực), giảm 7,3% so với năm 2015, trong đó diện tích gieo trồng lúa giảm ở tâ;́t cả các mùa vụ: Lúa vụ đông xuâ;n đạt 3.024,1 nghìn ha giảm 4,5%; lúa hè thu và thu đông 2.669,1 nghìn ha, giảm 7,6%; lúa mùa 1.584,6 nghìn ha, giảm 7,6%; diện tích ngô đạt 943,8 nghìn ha, giảm 18,5%. Bình quâ;n mỗi năm giai đoạn 2016-2020, diện tích câ;y lương thực có hạt giảm 1,8%/năm, trong đó diện tích lúa giảm 1,4%/năm, diện tích ngô giảm 4,4%/năm.

 


Ảnh minh họa

 
Do diện tích gieo trồng ngày càng bị thu hẹp nên sản lượng qua các năm giảm. Sản lượng lương thực có hạt năm 2020 ước tính đạt 47,28 triệu tâ;́n, giảm 6,1% so với năm 2015, trong đó lúa đạt 42,69 triệu tâ;́n, giảm 5,3%, ngô đạt 4,6 triệu tâ;́n, giảm 13,2%. Tính chung giai đoạn 2016-2020, sản lượng lương thực có hạt đạt 240,68 triệu tâ;́n, giảm 2,1% so với sản lượng lương thực có hạt giai đoạn 2011-2015, bình quâ;n mỗi năm giảm 1,3% (trong đó sản lượng lúa đạt 216,08 triệu tâ;́n, bình quâ;n giảm 1,1%/năm; sản lượng ngô đạt 24,58 triệu tâ;́n, bình quâ;n giảm 2,8%/năm).

Tuy diện tích gieo trồng lúa giảm nhưng các địa phương đã tập trung vào triển khai thực hiện đồng bộ các giải pháp phòng trừ dịch hại tổng hợp, kết hợp trồng hoa trên bờ ruộng, xâ;y dựng các vùng sản xuâ;́t hàng hóa lớn bền vững đảm bảo an toàn thực phẩm...; tiếp tục tăng tỷ lệ sử dụng giống lúa châ;́t lượng cao và từng bước nâ;ng cao giá trị “Thương hiệu hạt gạo Việt” từ thành công của các chuỗi sản xuâ;́t lúa gạo khép kín gắn với xâ;y dựng thương hiệu.

Bên cạnh đó, nhờ áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuâ;́t, gieo câ;́y loại giống lúa châ;́t lượng cao thay thế giống lúa truyền thống và chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu nên năng suâ;́t lúa tăng qua các năm. Năng suâ;́t lúa năm 2015 là 57,6 tạ/ha thì đến năm 2020 ước tính đạt 58,7 tạ/ha, tăng 1,1 tạ/ha. Cùng với đó, nhiều giống ngô châ;́t lượng và năng suâ;́t cao được đưa vào sản xuâ;́t, nhờ vậy năng suâ;́t ngô liên tục tăng từ 44,8 tạ/ha năm 2015 lên 48,7 tạ/ha năm 2020, tăng 3,9 tạ/ha.

Trong lĩnh vực trồng trọt, chú trọng chuy???n đổi cơ câ;́u câ;y trồng theo hướng nâ;ng cao châ;́t lượng và hiệu quả, thông qua việc giảm diện tích câ;y trồng hàng năm không hiệu quả sang câ;y trồng khác cho giá trị kinh tế cao hơn, như chuy???n đổi diện tích trồng lúa bị hạn hán hoặc nhiễm mặn sang trồng câ;y ăn quả, loại bỏ những câ;y trồng lâ;u năm đã già cỗi để tập trung vào câ;y cho năng suâ;́t cao.

Nếu như năm 2015, diện tích câ;y hàng năm chiếm 78,3% tổng diện tích câ;y trồng các loại, câ;y lâ;u năm chiếm 21,7%, trong đó câ;y ăn quả chiếm 5,5% thì đến năm 2020 diện tích câ;y hàng năm giảm xuống còn 75,1% và diện tích câ;y lâ;u năm tăng lên là 24,9%, trong đó câ;y ăn quả đạt 7,8%. Tuy nhiên, diện tích câ;y công nghiệp lâ;u năm không ổn định qua các năm do biến động giá và một phần diện tích già cỗi cần phải trồng tái canh. Đến năm 2020, diện tích trồng câ;y cao su đạt 926 nghìn ha, giảm 59,6 nghìn ha so với năm 2015; cà phê đạt 695,5 nghìn ha, tăng 52,2 nghìn ha; diện tích hồ tiêu tăng mạnh vào các năm 2017, 2018, cao nhâ;́t đạt trên 150 nghìn ha, sau đó do giá giảm và không ổn định nên đến năm 2020 còn 131,8 nghìn ha, tăng 30,2 nghìn ha; câ;y điều đạt 302,5 nghìn ha, cao hơn 12,1 nghìn ha; chè đạt 124 nghìn ha, giảm 9,6 nghìn ha. Năm 2020, diện tích câ;y ăn quả dự kiến đạt 1,13 triệu ha, tăng 309,4 nghìn ha, bình quâ;n mỗi năm giai đoạn 2016-2020 tăng 61,9 nghìn ha. Tính chung 5 năm 2016-2020, diện tích trồng câ;y lâ;u năm tăng bình quâ;n  2,1%/năm  nhưng  vẫn  thâ;́p  hơn  mức  tăng  2,7%/năm  của  giai  đoạn  2011-2015,  trong  đó  câ;y  cônnghiệp tăng 0,2%/năm, câ;y ăn quả tăng 6,6%/năm.

Nhờ những chuy???n đổi theo hướng tích cực, sản phẩm câ;y ăn quả của Việt Nam đã không những chiếm lĩnh thị trường trong nước mà còn vươn ra thị trường nước ngoài chinh phục những thị trường khó tính như Mỹ, Nhật Bản, Ốt-xtrâ;y-lia, Niu-di-lâ;n, Thái Lan. Một số sản phẩm trái câ;y Việt đã“xuâ;́t ngoại” thành công như: Thanh Long, Xoài, Nhãn, Vải, Vú sữa…
Chăn nuôi hướng đến sản xuất quy mô lớn, đẩy mạnh áp dụng công nghệ và kỹ thuật tiên tiến
Những đánh giá chung cho thâ;́y, hoạt động chăn nuôi giai đoạn vừa qua đã có những chuy???n biến tích cực từ nông hộ quy mô nhỏ sang chăn nuôi gia trại, trang trại, chăn nuôi hộ theo hình thức công nghiệp quy mô lớn, áp dụng kỹ thuật và công nghệ tiên tiến; khuyến khích chăn nuôi theo hướng hữu cơ, xâ;y dựng vùng chăn nuôi an toàn để kiểm soát dịch bệnh; chế biến sâ;u và phát triển thị trường sản phẩm chăn nuôi công nghiệp, đồng thời, chú trọng châ;́t lượng, hiệu quả và giá trị gia tăng để liên kết doanh nghiệp với các hộ chăn nuôi và tổ chức sản xuâ;́t nhằm tạo điều kiện tiêu thụ sản phẩm đầu ra.

Ước tính đến năm 2020, đàn bò đạt 6,21 triệu con, tăng 15,7% so với năm 2015, bình quâ;n mỗi năm giai đoạn 2016-2020 tăng 3%; đàn trâ;u có xu hướng giảm do hiệu quả kinh tế không cao và diện tích chăn thả bị thu hẹp, đạt 2,33 triệu con, giảm 188,6 nghìn con so với năm 2015, bình quâ;n mỗi năm giảm 1,5%. Đàn gia cầm cả nước nhìn chung phát triển tốt, không có dịch bệnh lớn xảy ra. Khi tình hình dịch bệnh ở lợn diễn biến phức tạp, nhu cầu tiêu thụ thịt gia cầm và trứng tăng mạnh do người dâ;n đã chuy???n sang sử dụng thịt gia cầm và các loại trứng nhiều hơn. Người chăn nuôi gia cầm cũng yên tâ;m mở rộng quy mô đàn. Các yếu tố này đã khiến tổng đàn gia cầm và sản lượng thịt gia cầm, sản lượng trứng gia cầm có xu hướng tăng cao. Ước tính năm 2020, tổng đàn gia cầm đạt gần 510 triệu con, tăng 49,2% so với năm 2015; bình quâ;n mỗi năm tăng 8,3%.

Trong giai đoạn 2016-2020, ngành chăn nuôi lợn đã phải đối mặt với cơn khủng hoảng lớn khi dịch tả lợn châ;u Phi xuâ;́t hiện và lan rộng. Sau khi ổ dịch đầu tiên được phát hiện tại miền Bắc từ tháng 2/2019, đến tháng 9/2019 dịch đã lan rộng khắp cả 63 tỉnh, thành phố. Tổng đàn lợn cả nước đã sụt giảm mạnh so với năm 2015, do đó sản lượng thịt lợn hơi xuâ;́t chuồng cũng giảm sâ;u. Tổng đàn lợn của cả nước năm 2020 là 22,95 triệu con, giảm 17,3% so với năm 2015; bình quâ;n mỗi năm giảm 3,7%. Dự tính sản lượng thịt hơi các loại năm 2020 đạt 5,4 triệu tâ;́n, tăng hơn các năm trước đó, nhâ;́t là so với năm 2019 tăng tới 315 nghìn tâ;́n. Sản lượng sữa tươi tăng qua các năm, năm 2020 ước tính đạt 1,09 triệu tâ;́n, tăng 10,2% so với năm 2015. Sản lượng trứng cũng tăng qua các năm, năm 2020 ước tính đạt 14.690 triệu quả, tăng 5.815,7 triệu quả so với năm 2015.

Lao động trong ngành nông nghiệp có xu hướng giảm rõ rệt, ngược lại năng suất lao động có xu hướng tăng với tốc độ nhanh

Ngoài ra, theo đánh giá, ngành nông nghiệp, lâ;m nghiệp và thủy sản thu hút một lực lượng lao động râ;́t lớn, thu hút khoảng 34-42% lực lượng lao động trong nền kinh tế. Tuy nhiên, hiện nay cơ câ;́u lao động hoạt động trong ngành này có xu hướng giảm do lao động chuy???n sang hoạt động trong các ngành phi nông nghiệp, lâ;m nghiệp và thủy sản. Năm 2020, lao động từ 15 tuổi trở lên đang làm việc trong ngành nông nghiệp, lâ;m nghiệp và thủy sản là 17,5 triệu người, giảm 24,3% so với năm 2015. Lực lượng lao động trong ngành này chiếm 32,8% tổng số lao động cả nước năm 2020, giảm 10,8 điểm phần trăm so với năm 2015. Năng suâ;́t lao động xã hội (Tổng sản phẩm trong nước theo giá hiện hành bình quâ;n 1 lao động 15 tuổi trở lên đang làm việc) có xu hướng tăng với tốc độ khá nhanh qua các năm, năm 2019 là 117,9 triệu đồng/lao động, tăng 49,4% so với năm 2015, trong đó khu vực nông, lâ;m nghiệp và thủy sản đạt 53,5 triệu đồng/lao động, tăng tới 73,7%.

Giai đoạn từ 2016-2020, nhờ triển khai có hiệu quả Đề án Tái cơ câ;́u ngành, chuy???n đổi theo kế hoạch diện tích đâ;́t lúa kém hiệu quả và chủ động chuy???n đổi diện tích gieo trồng lúa hàng năm không câ;n đối được nguồn nước sang trồng rau, màu, câ;y ăn quả...; những sản phẩm đang có thị trường tiêu thụ cả trong và ngoài nước và giá trị thu được cao hơn trồng lúa; Các địa phương đã khuyến khích, hỗ trợ các tổ chức, cá nhâ;n, doanh nghiệp đầu tư phát triển công nghiệp chế biến, công nghệ bảo quản để gia tăng giá trị... Nhờ đó, hiệu quả sản xuâ;́t trên 1 đơn vị diện tích không ngừng tăng lên qua các năm, giá trị sản phẩm trên 1 ha đâ;́t trồng trọt tăng từ 82,6 triệu đồng/ha năm 2015 lên 97,1 triệu đồng/ha năm 2019...

Có thể thâ;́y, giai đoạn 2016-2020, hoạt động sản xuâ;́t nông nghiệp Việt Nam đã từng bước hội nhậpsâ;u rộng hơn, nông sản của Việt Nam đã nhanh chóng tiếp cận và kết nối với các thị trường giàu tiềm năng và có yêu cầu cao như Mỹ, EU, Nhật Bản... Trong những năm tiếp theo, ngành Nông nghiệp tiếp tục phải đối mặt với nhiều thách thức như: Diễn biến ngày càng phức tạp của biến đổi khí hậu, dịch bệnh và xu hướng hội nhập trên tâ;́t cả các lĩnh vực đời sống, kinh tế của các nước trên thế giới, song đâ;y cũng là cơ hội để ngành nông nghiệp Việt Nam tiếp tục vươn lên và trưởng thành. Để duy trì đà tăng trưởng, sản xuâ;́t nông nghiệp cần từng bước nâ;ng cao châ;́t lượng nông sản, đảm bảo an toàn thực phẩm, truy xuâ;́t nguồn gốc, ổn định sản xuâ;́t, điều chỉnh cơ câ;́u mùa vụ, diện tích gieo trồng phù hợp nhằm hạn chế thâ;́p nhâ;́t tác động của biến đổi khí hậu,... Đối với hoạt động chăn nuôi cần tập trung triển khai thực hiện các nhiệm vụ trọng tâ;m về công tác chỉ đạo tái đàn, tăng đàn lợn, đáp ứng đủ nguồn cung con giống cho nhu cầu sản xuâ;́t nhằm tăng nguồn cung lợn thịt, góp phần giảm giá sản phẩm và ổn định thị trường. Đồng thời, triển khai chăn nuôi an toàn sinh học kết hợp với tăng cường phòng, chống dịch bệnh trên đàn gia súc, gia cầm,... Bên cạnh đó, cần thúc đẩy nghiên cứu, chuy???n giao khoa học công nghệ, nâ;ng cao châ;́t lượng nguồn nhâ;n lực cho hoạt động sản xuâ;́t nông nghiệp... Đâ;y sẽ là nền tảng và là động lực để ngành nông nghiệp Việt Nam tiếp tục hoàn thành các mục tiêu phát triển kinh tế nông nghiệp trong giai đoạn mới, đóng góp tích cực vào sự phát triển chung của kinh tế đâ;́t nước./.

 
Trần Thị Thu Trang
 
Vụ Thống kê Tổng hợp và Phổ biến thông tin thống kê - TCTK

Ứng dụng cá cược Tomb of Treasure